Top ghi bàn VĐQG Uganda 2024, BXH vua phá lưới VĐQG Uganda
- Kết quả
- Trực tuyến
- Nhận định
- Lịch thi đấu
- Kèo bóng đá
- Dự đoán
- BXH
- Top ghi bàn
- Thống kê
- Danh sách CLB
Top ghi bàn VĐQG Uganda mùa giải 2024
Tên giải đấu | VĐQG Uganda |
Tên khác | |
Tên Tiếng Anh | Uganda Premier League |
Mùa giải hiện tại | 2024 |
Mùa giải bắt đầu ngày | |
Mùa giải kết thúc ngày | |
Vòng đấu hiện tại | 0 |
Thuộc Liên Đoàn | |
Ngày thành lập | |
Số lượng đội bóng (CLB) | |
Giải Bóng đá Ngoại hạng UgandaĐược dịch từ tiếng Anh-Giải Ngoại hạng Ugandan còn được gọi là Giải Ngoại hạng StarTimes Uganda vì lý do tài trợ là bộ phận hàng đầu của Liên đoàn bóng đá Liên đoàn Uganda. Giải đấu trước đây được gọi là 'Super League' nhưng đã thay đổi trong mùa giải 201415 sau khi ban lãnh đạo mới tiếp quản. Nguồn gốc của bóng đá câu lạc bộ ở Uganda là một ý tưởng sao chép từ Anh bởi Balamaze Lwanga và Polycarp Kakooza. Mục tiêu là để cải thiện màn trình diễn của Uganda tại Cúp các quốc gia châu Phi sau kết quả đáng thất vọng ở các trận chung kết năm 1962 (về thứ 4) và 1968 (thua cả 3 trận vòng bảng), đều được tổ chức tại Ethiopia. Ý định là thành lập giải VĐQG Uganda (tiền thân của Uganda Super League) để tạo nền tảng cho một đội tuyển quốc gia mạnh. Đồng thời, việc xác định các cầu thủ từ cơ sở sẽ được thực hiện dễ dàng hơn và có hệ thống. Bởi vì không có câu lạc bộ nào để thành lập liên đoàn, các tổ chức và khu học chánh được liên hệ để thành lập đội. Liên đoàn bay hàng đầu khai mạc năm 1968 bao gồm Prisons, Army, Coffee, Express, Jinja, Masaka, Mbarara và Mbale. Có ba tổ chức và bốn quận và một câu lạc bộ. [3] Giải đấu được gọi là National First Division League, và nhà vô địch giải đấu đầu tiên là Prisons FC Kampala (nay được gọi là Maroons FC). Sau bốn mùa giải, bất ổn chính trị ở Uganda đã ảnh hưởng đến giải đấu. Các chức vô địch năm 1972 và 1973 đã không hoàn thành vì tình trạng bất ổn dân sự. Năm 1974, giải đấu được gọi là Liên đoàn bóng đá quốc gia và danh hiệu này được sử dụng cho đến năm 1982 khi giải đấu được rút ngắn xuống còn mười đội và được đổi tên thành Super League (rút gọn thành Super Ten trong mùa giải khai mạc đó). |